Triết học Mác – Lênin là gì? Đối tượng, chức năng, vai trò, nội dung – LyTuong.net
1. Triết học Mác-Lênin
- Xem: Sự ra đời và phát triển của triết học Mác-Lênin
Triết học Mác – Lênin là hệ thống các quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư tưởng – thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ nhằm nhận thức và cải tạo thế giới.
Triết học Mác-Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng theo nghĩa rộng. Đó là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy, là sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong triết học Mác – Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ. Với tư cách là chủ nghĩa duy vật, triết học Mác – Lênin là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học – chủ nghĩa duy vật biện chứng. Với tư cách là phép biện chứng, triết học Mác – Lênin là hình thức cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học – phép biện chứng duy vật.
Bạn đang xem: Triết học mác-lênin là gì
Triết học Mác – Lênin đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học tiêu biểu cho lực lượng xã hội vật chất năng động và cách mạng nhất trong thời đại hiện nay, giai cấp công nhân nhận thức và cải tạo, sáng tạo xã hội. Đồng thời, triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin còn là thế giới quan và phương pháp luận để nhận thức và cải tạo xã hội bằng lực lượng lao động của con người, bằng cách mạng và tiến bộ xã hội.
Trong thời đại ngày nay, triết học Mác – Lênin là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng triết học nhân loại và là bước phát triển cao nhất của các hình thái triết học trong lịch sử. Triết học Mác – Lênin là học thuyết về sự phát triển của thế giới, đã và đang phát triển trong bối cảnh văn minh nhân loại.
2. Đối tượng của triết học Mác – Lênin
Với tư cách là một hình thái tư tưởng triết học phát triển cao của nhân loại, đối tượng nghiên cứu của triết học Mác – Lênin phải vừa giống vừa khác với đối tượng nghiên cứu của các hệ thống triết học khác trong lịch sử.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, mặc dù mỗi hệ thống triết học thường có đối tượng nghiên cứu được xác định rõ ràng nhưng để phát huy được vai trò của mình (đây là cốt lõi lý luận và phương pháp cơ bản của thế giới quan), trước hết nó phải nghiên cứu và giải quyết vấn đề trên cơ sở về chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm.Vị trí nhất định, mọi mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Trên cơ sở đó và với chức năng này, mọi hệ thống triết học trong lịch sử đều phải tập trung nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và con người; nghiên cứu mối quan hệ của con người nói chung, con người nói riêng. quan điểm của các định hướng khác nhau của tâm trí con người và thế giới xung quanh nó (tích cực hoặc tiêu cực) mối quan hệ.
Triết học Mác – Lênin khắc phục những hạn chế, hiểu lầm của các hệ thống triết học khác, xác định đối tượng nghiên cứu là giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên cơ sở duy vật biện chứng, nghiên cứu những quy luật chung nhất và các quy luật vận động. Sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Do những vấn đề cơ bản của triết học được giải quyết thấu đáo trên quan điểm duy vật biện chứng nên triết học Mác – Lênin đã chỉ ra những quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, lịch sử xã hội và thế giới. ý tưởng. Triết học Mác – Lênin đã giải quyết đúng đắn đồng thời mối quan hệ giữa phép biện chứng khách quan và phép biện chứng chủ quan. Thế giới khách quan, quá trình nhận thức và tư duy của con người đều tuân theo quy luật biện chứng. Nội dung quy luật biện chứng của thế giới là khách quan, còn hình thức phản ánh là chủ quan. Phép biện chứng chủ quan là sự phản ánh của phép biện chứng khách quan.
Triết học Mác – Lênin đã khắc phục những hạn chế lịch sử của các hệ thống triết học khác, đối tượng nghiên cứu của nó không chỉ bao gồm những quy luật phổ biến của tự nhiên chung mà còn bao gồm cả những quy luật phổ biến của bộ phận đã được nhân loại hóa của tự nhiên, đó là quy luật xã hội phổ biến. và quy luật lịch sử. Vì vậy, đối tượng của triết học Mác – Lênin bao gồm vấn đề con người. Triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin bắt nguồn từ con người và thực tiễn, phát hiện những quy luật chi phối sự vận động, phát triển của xã hội và tư tưởng con người. Mục đích của triết học Mác – Lênin là nâng cao hiệu quả của quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn, phục vụ lợi ích của nhân loại.
Trong triết học Mác – Lênin, đối tượng của triết học và đối tượng của khoa học cụ thể được phân biệt rõ ràng. Một ngành khoa học cụ thể nghiên cứu các quy luật tự nhiên, xã hội hoặc một lĩnh vực tư tưởng cụ thể. Các quy luật chung nhất của nghiên cứu triết học hoạt động trong cả ba lĩnh vực.
Triết học Mác-Lênin có mối quan hệ chặt chẽ với khoa học cụ thể. Khoa học cụ thể cung cấp dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học mới, làm tiền đề và cơ sở cho sự phát triển của triết học. Một khoa học cụ thể tuy có đối tượng và chức năng riêng nhưng nó phải phụ thuộc vào một thế giới quan và phương pháp luận triết học nhất định. Mối quan hệ giữa các quy luật triết học và các quy luật khoa học cụ thể là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Sự kết hợp của hai ngành khoa học, hai loại tri thức nói trên là tất yếu. Bất kỳ khoa học nào dù có ý thức hay tự phát đều phải dựa trên một nền tảng triết học nhất định. Triết học Mác – Lênin là sự khái quát cao độ những thành tựu khoa học cụ thể, vạch ra những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; do đó, nó trở thành cơ sở của thế giới quan khoa học và phương pháp luận cụ thể.
3. Vai trò của triết học Mác – Lênin
Cũng như mọi khoa học, triết học Mác – Lênin đồng thời thực hiện nhiều chức năng khác nhau. Tức là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận, chức năng nhận thức và giáo dục, chức năng dự báo và phê phán… và chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận là hai chức năng cơ bản của triết học Mác – Lênin.
a/chức năng thế giới quan
Thế giới quan là tổng thể các quan điểm về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. Triết học là cốt lõi lý luận của thế giới quan. Triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin thể hiện thế giới quan duy vật biện chứng mà cốt lõi là thế giới quan của chủ nghĩa cộng sản.
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hướng dẫn con người nhận thức đúng đắn về thế giới hiện thực. Đó là những chiếc “kính” triết học để con người suy nghĩ, nhận thức thế giới, phán đoán mọi sự vật, hiện tượng và soi xét bản thân. Nó giúp con người hiểu sâu sắc hơn bản chất, bản chất của xã hội, mục đích và ý nghĩa của cuộc sống.
Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình thành quan điểm khoa học làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Qua đó giúp con người xác định thái độ và cách thức hoạt động của mình. Theo một nghĩa nào đó, một thế giới quan cũng hoạt động như một phương pháp luận. Thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác – Lênin thống nhất với nhau một cách hữu cơ.
Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao lòng nhiệt tình và sức sáng tạo của con người. Một thế giới quan đúng đắn là điều kiện tiên quyết để thiết lập một cái nhìn tích cực về cuộc sống. Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng để đo lường sự trưởng thành của một con người hay cả một cộng đồng xã hội.
Khoa học có thể giúp con người hình thành thế giới quan đúng đắn. Trong đó, thế giới quan triết học là cốt lõi lý luận của thế giới quan, nó làm cho sự phát triển thế giới quan của con người trở thành một quá trình có ý thức.
Thế giới quan duy vật là cơ sở khoa học để chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Thế giới quan duy vật biện chứng có tính khoa học và cách mạng, là cốt lõi tư tưởng của giai cấp công nhân và lực lượng cách mạng tiến bộ, là cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh tư tưởng chống giai cấp công nhân. Tư duy phản cách mạng, phản khoa học.
b/Hàm phương pháp
Phương pháp luận là hệ thống các tư tưởng và nguyên tắc xuất phát định hướng cho việc vận dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt được kết quả tối ưu. Phương pháp luận còn có nghĩa là lý thuyết về hệ thống phương pháp luận. Triết học Mác – Lênin giữ vai trò phương pháp luận chung nhất, phổ quát nhất trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Vai trò của phương pháp duy vật biện chứng trước hết xuất hiện với tư cách là phương pháp chung của nhận thức khoa học nói chung. Phương pháp luận duy vật biện chứng cung cấp cho con người những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất của hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Triết học Mác – Lênin cung cấp cho con người một tập hợp các khái niệm, phạm trù và hệ thống quy luật làm công cụ nhận thức khoa học, giúp con người phát triển tư duy khoa học, tức là tư duy ở cấp độ phạm trù và quy luật.
Tuy nhiên, triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin không phải là “thuốc chữa bách bệnh” giải quyết được mọi vấn đề. Để nhận thức và hành động có hiệu quả, cũng như tri thức triết học, con người cần phải có tri thức khoa học cụ thể và kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động xã hội. Không được coi thường hay tuyệt đối hóa phương pháp luận triết học trong ý thức và hoạt động thực tiễn. Nếu bỏ qua phương pháp luận triết học thì công việc sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, dễ sao nhãng, thiếu tính chủ động, sáng tạo. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của phương pháp luận triết học thì sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, dễ vấp ngã, thất bại. Trau dồi phương pháp luận duy vật biện chứng và giúp mọi người tránh được những sai lầm do chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.
4. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội Việt Nam ngày nay và sự đổi mới
*Triết học Mác-Lênin là thế giới quan, phương pháp khoa học và cách mạng mà mọi người hiểu và thực hành
Phép biện chứng duy vật, đặc biệt là những nguyên lý, quy luật cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử và triết học Mác – Lênin nói chung, là sự phản ánh những hệ thống phổ biến nhất của hiện thực khách quan về các mặt, thuộc tính và mối liên hệ của chúng. Vì vậy, chúng có giá trị định hướng quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Về nguyên tắc, giá trị có hướng này không khác gì giá trị có hướng của các nguyên lý và định luật chung do một ngành khoa học chuyên môn nào đó phát biểu về một lĩnh vực nhất định của hiện thực, chẳng hạn như thuật ngữ, không khác gì giá trị có hướng của định luật bảo toàn và giá trị của phép biện chứng duy vật.Chuyển hóa năng lượng, quy luật hấp dẫn, quy luật giá trị… phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối quan hệ chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, nên chúng có vai trò định hướng chứ không chỉ đến một phạm vi, nguyên tắc và nguyên tắc do khoa học chuyên ngành đề ra.Quy định nào đó của pháp luật là đúng trong mọi trường hợp. Họ giúp con người thay đổi mọi thứ khi họ bắt tay vào nghiên cứu và hoạt động, không phải từ một lĩnh vực trống rỗng, mà bao giờ cũng từ một vị trí cụ thể, dự đoán hướng vận động chung của con người. Đối tượng, bước đầu xác định những mốc cơ bản của nghiên cứu hay hoạt động thay đổi sự vật phải vượt qua, tức là giúp con người xác định tổng thể con đường phía trước, xác định phương hướng, đặt mục tiêu, giải quyết vấn đề và giải quyết vấn đề, tránh những sai lầm hay mò mẫm thiếu suy nghĩ để được hướng dẫn. sự đan xen của các mối quan hệ phức tạp.
Ví dụ, một trong những vấn đề cấp bách phải đối mặt trong hầu hết mọi giai đoạn xã hội là vấn đề thái độ đối với tôn giáo. Ở Việt Nam, các vấn đề tôn giáo đôi khi được giải quyết bằng những phương pháp đơn giản, hành chính và khoa học mà không nhìn thấy tính phức tạp của vấn đề.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội xuất hiện và tồn tại do những nguyên nhân khách quan nhất định. Trong buổi đầu lịch sử, sự thống trị của các thế lực tự nhiên bên ngoài có ý nghĩa quyết định đối với sự ra đời và tồn tại của các tôn giáo. Trước khi xuất hiện xã hội có giai cấp, ngoài lực lượng tự nhiên còn có lực lượng xã hội. Các lực lượng xã hội đó cũng đối lập và xa lạ với con người, và giống như các lực lượng tự nhiên, chúng kiểm soát cuộc sống của con người theo những cách bí ẩn và không thể đoán trước. Trong các xã hội có giai cấp, áp bức xã hội là nguồn gốc chính của tôn giáo. Vì vậy, để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, chúng ta phải chống lại những nguyên nhân vật chất của tôn giáo. Cuối cùng, mọi áp bức và bất công xã hội phải được loại bỏ, không chỉ thông qua cấm đoán tôn giáo. Vì vậy, chúng ta một mặt bênh vực quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo là quyền của mọi người, mặt khác chúng ta tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm thiết lập một chế độ xã hội không ai bóc lột người khác, từ đó xóa bỏ chế độ xã hội đã ăn sâu bám rễ. Gốc rễ xã hội làm phát sinh tôn giáo dẫn đến sự diệt vong của chính nó. Đây là một cách tiếp cận khoa học chỉ có thể đạt được trên cơ sở quan điểm duy vật.
Vì vậy, từ những quan điểm triết học khác nhau, chúng ta đã có những cách giải quyết vấn đề khác nhau. Vì vậy, chấp nhận hay không chấp nhận một quan điểm triết học nào đó không chỉ là chấp nhận hay không chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách giải thích nhất định về thế giới, mà còn là chấp nhận hay phản đối một cơ sở phương pháp luận nào đó để chỉ đạo hành động. Trong trường hợp này, chúng tôi xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật, coi vật chất là ý thức có trước và quyết định, tìm cách tìm ra nguyên nhân vật chất của tôn giáo và tìm cách loại bỏ chúng, để loại bỏ chúng và loại trừ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội bên ngoài. Và những người xuất phát từ quan điểm duy tâm, dù có ý thức hay tự phát, những người tin rằng ý thức là tiền đề và quyết định của vật chất, sẽ tìm cách tiêu diệt tôn giáo bằng cách cấm chỉ bằng sức mạnh ý chí. Rõ ràng, cách giải quyết thứ hai sẽ không hoạt động.
Triết học là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất, nhưng nó không quá xa vời, hão huyền mà ngược lại, nó gắn bó mật thiết với đời sống và thực tiễn, là định hướng, kim chỉ nam cho hành động của chúng ta. Từ quan điểm triết học đúng đắn, tức là từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta có thể có những giải pháp đúng đắn cho các vấn đề trong cuộc sống. Ngược lại, chúng ta không thể tránh những hành động sai trái từ quan điểm triết học sai lầm. Giá trị của phương hướng thể hiện ở đây – một trong những biểu hiện cụ thể của chức năng phương pháp luận triết học.
Cách đánh giá chưa thỏa đáng đó trước hết thể hiện ở thái độ xem nhẹ vai trò của triết học, cho rằng do những vấn đề mà triết học nghiên cứu và giải quyết còn quá chung chung, kết quả nghiên cứu còn ít và xa vời, hiệu quả thực tế rất ít. Vấn đề là nhiều khi, khi giải quyết các vấn đề cụ thể, các học viên không thể tìm ra câu trả lời cụ thể về mặt triết học. Đồng thời, trong hoạt động thực tiễn, vấn đề đầu tiên con người gặp phải và buộc phải giải quyết là vấn đề tri thức triết học.
Những vấn đề cấp thiết mà cuộc sống và hoạt động thực tiễn đặt ra luôn là những vấn đề rất cụ thể, nhưng để giải quyết có hiệu quả những vấn đề cuộc sống cụ thể đó, không ai có thể tránh khỏi việc giải quyết những vấn đề chung liên quan. bởi vì. Lênin đã từng nói: “Ai bắt đầu giải quyết vấn đề của mình trước khi giải quyết vấn đề chung, thì chắc chắn anh ta sẽ ‘gặp phải’ những vấn đề chung đó trên mỗi bước đường. Đây là một cách vô thức”. có nghĩa là những biến động tồi tệ nhất trong chính sách của một người và sự mất hoàn toàn các nguyên tắc của một người. “
Có thể thấy, khó khăn trong việc giải quyết hàng loạt vấn đề cụ thể và cấp bách trong những ngày đầu của Chính sách mới ở Việt Nam không nằm ở những vấn đề cụ thể mà thực chất xuất phát từ một góc độ rộng lớn hơn, chẳng hạn cơ sở để giải quyết các vấn đề cụ thể lúc bấy giờ chưa hoàn toàn rõ ràng và thống nhất.
Đây là vấn đề triết học, việc nghiên cứu và giải quyết vấn đề quan điểm sẽ cung cấp cơ sở lý luận đúng đắn để giải quyết hiệu quả mọi vấn đề cụ thể. Không có lý do hợp lý, người ta chỉ có thể hành động trong trạng thái lơ mơ, và các chính sách tất yếu sẽ rơi vào tình trạng tùy tiện. Vì vậy, nghiên cứu và giải quyết những câu hỏi triết học do thực tiễn cuộc sống đặt ra không phải là việc làm vô bổ, mà là sự đóng góp thiết thực vào việc giải quyết những vấn đề rất thực tiễn, nhất là những áp bức về thân xác, cuộc sống.
Tuy nhiên, hiệu quả của nghiên cứu triết học không đơn giản như hiệu quả của các bộ môn khoa học và công nghệ, chưa nói đến hiệu quả của hoạt động sản xuất trực tiếp. Những kết luận do nghiên cứu triết học rút ra không phải là những câu trả lời trực tiếp và cụ thể cho mọi câu hỏi vô cùng đa dạng và cụ thể trong cuộc sống, mà là cơ sở để xác định những câu trả lời trực tiếp và cụ thể. Chẳng hạn, kết luận mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Trung Quốc: “Năng suất không chỉ bị kìm hãm khi quan hệ sản xuất lạc hậu, mà còn có những nhân tố tụt hậu quá xa so với trình độ phát triển xã hội khi quan hệ sản xuất lạc hậu. đồng bộ. năng suất” đang được triển khai Là cơ sở để xác định hàng loạt chính sách mới, đúng đắn hơn trong nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội.
Hiệu quả của nghiên cứu triết học nằm ở giá trị định hướng của nó đối với hoạt động thực tiễn, ở chỗ những kết luận chung, phổ quát mà nó rút ra là vô cùng phong phú, đa dạng, có thể không nhất thiết và không thể là những câu trả lời cụ thể cho từng trường hợp riêng lẻ. Điều này cho thấy triết học có vai trò to lớn trong việc giải quyết những vấn đề rất cụ thể của cuộc sống.
Xem thêm: Rate là gì trên Facebook? Năm 2022 mà không biết là dở rồi
Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu tuyệt đối hóa vai trò của triết học và cho rằng chỉ cần hiểu triết học là có thể giải quyết ngay mọi vấn đề cụ thể trong thực tế. Đi nào. Quan điểm chuyên chế về vai trò của triết học đã khiến một số người ảo tưởng rằng triết học là chìa khoá vạn năng, nắm được nó thì tự khắc mọi vấn đề sẽ được giải quyết. Xu hướng này chắc chắn dẫn đến những sai lầm giáo điều, vì nó áp dụng một cách máy móc các nguyên tắc và định luật chung cho các trường hợp riêng biệt và cụ thể. Những nguyên lý và luật chung này, nói vi diệu. Lê-nin, phần lớn đã được lịch sử minh chứng, nhưng trong thực tế cụ thể, sự vật đã thay đổi theo cách mà chúng ta không thể (và bất kỳ ai cũng có thể) dự đoán được; nó diễn ra một cách độc đáo và phức tạp hơn. Vì vậy, mỗi nguyên tắc chung phải được xem xét theo tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin: a) dưới góc độ lịch sử; b) trong mối quan hệ với các nguyên tắc khác; c) trong mối quan hệ với “kinh nghiệm lịch sử cụ thể”. Thiếu “kinh nghiệm lịch sử cụ thể”, thiếu hiểu biết thực tế sinh động của sự việc đã xảy ra ở một địa điểm và thời gian cụ thể – thì việc áp dụng các nguyên tắc chung không những không hiệu quả mà nhiều khi còn dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng.
Vì vậy, để có thể giải quyết hiệu quả những vấn đề cụ thể hết sức phức tạp và đa dạng của cuộc sống, chúng ta cần tránh hai thái cực sai lầm: hoặc bỏ qua triết lý sống. Việc học sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện, dễ hài lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, dẫn đến mất phương hướng, thiếu tầm nhìn xa, thiếu chủ động, sáng tạo trong công việc; hoặc vai trò của triết học sẽ bị tuyệt đối hóa, rơi vào chủ nghĩa giáo điều, và sao chép một cách máy móc do không nắm vững tình hình cụ thể Những nguyên lý chung và những quy luật triết học. Từng trường hợp cụ thể.
Kết hợp hai loại kiến thức nêu trên – kiến thức phổ thông (bao gồm kiến thức triết học và kiến thức khoa học chuyên môn) và kiến thức thực tiễn (bao gồm hiểu biết về các tình huống thực tế và trình độ tay nghề thể hiện qua sự nhạy cảm thực tiễn) – là điều kiện tiên quyết cần thiết để chúng ta thành công trong hoạt động cụ thể của chúng tôi.
*Triết học Mác – Lênin là cơ sở của thế giới quan phương pháp luận cách mạng khoa học phân tích xu thế phát triển của xã hội trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Trong thời đại ngày nay, vai trò của triết học Mác – Lênin ngày càng được nâng cao. Nói cách khác, trước hết là do đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại quy định.
Thực chất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là sự chuyển biến về chất của lực lượng sản xuất trên cơ sở tri thức khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đặc điểm nổi bật của nó là con đường phát triển khu vực hóa mạnh mẽ nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội trong quá trình toàn cầu hóa, tạo ra những cơ hội và thách thức đối với mọi quốc gia và dân tộc trên thế giới. Là kết quả của cuộc cách mạng công nghệ hiện đại, loài người bước vào thế kỷ XX với những vấn đề nhận thức mới hết sức cơ bản và sâu sắc. Trước đó, triết học Mác – Lênin với tư cách là cơ sở lý luận – phương pháp luận của các phát minh khoa học, có vai trò hết sức quan trọng trong việc tích hợp và phổ biến tri thức khoa học hiện đại. Dù có ý thức hay tự phát, sự phát triển của khoa học hiện đại phải dựa trên thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đồng thời, những vấn đề mới trong hệ thống tri thức khoa học hiện đại cũng đặt ra những yêu cầu phát triển mới cho triết học Mác – Lênin.
Trong thế giới ngày càng toàn cầu hóa ngày nay. Thực chất của toàn cầu hóa là quá trình làm gia tăng mạnh mẽ mối quan hệ, ảnh hưởng, ảnh hưởng và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các khu vực, các quốc gia và các dân tộc trên thế giới. Cùng với quá trình toàn cầu hóa, xu hướng vừa bổ sung vừa phản ứng là xu hướng khu vực hóa. Toàn cầu hóa đã kéo theo hàng loạt các tổ chức quốc tế và khu vực. Toàn cầu hóa là một quá trình xã hội phức tạp, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, cả tích cực và tiêu cực, đặt ra cả cơ hội và thách thức đối với các quốc gia và người dân, nhất là đối với các nước kém phát triển. Các thế lực đế quốc, tư bản đang lợi dụng toàn cầu hóa để thực hiện toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, toàn cầu hóa là cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc chống lại các nước đang phát triển và kém phát triển. Trong bối cảnh đó, triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cách mạng khoa học để phân tích các vận động và xu hướng phát triển của xã hội hiện đại.
Chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, chủ nghĩa Mác – Lênin nói riêng là học thuyết cách mạng khoa học, soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đang diễn ra không ngừng. Trong điều kiện mới, dưới hình thức mới.
Hiện nay, chủ nghĩa xã hội đang khủng hoảng và suy thoái, cán cân lực lượng không thuận lợi cho các lực lượng cách mạng và tiến bộ. Chủ nghĩa đế quốc tạm thời giành được quyền lực. Tuy nhiên, phong trào công nhân, phong trào xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc vẫn tồn tại và đang từng bước phục hồi, tập hợp và phát triển lực lượng, tìm tòi những phương thức và phương thức đấu tranh mới.
Cuộc cách mạng công nghệ hiện đại, quốc tế hóa, xu thế toàn cầu hóa và các vấn đề toàn cầu đang làm tăng tính toàn vẹn của thế giới, hợp tác và đấu tranh trong xu thế cùng tồn tại hòa bình.
Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại nhưng đã biểu hiện những đặc điểm mới, hình thức mới. Đồng thời, nhiều cuộc xung đột toàn cầu khác đang nổi lên. Thế giới thế kỷ 20 vẫn tồn tại và phát triển trong hệ thống các mâu thuẫn đó, trong đó mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa lợi ích của giai cấp tư sản với lợi ích của đại đa số nhân loại mà mục tiêu cuối cùng là mục tiêu. , độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để đạt được mục tiêu cao cả này, loài người phải có lý luận khoa học và cách mạng dẫn đường. Học thuyết này chính là chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và chủ nghĩa Mác-Lênin nói riêng.
Triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới, là cơ sở lý luận khoa học cho sự nghiệp đổi mới nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chủ nghĩa xã hội chân chính đã thể hiện tính ưu việt của mô hình xã hội mới, vì hạnh phúc của nhân dân. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực đã bộc lộ những hạn chế, trong đó nổi bật nhất là cơ chế quản lý kinh tế – xã hội tập trung, quan trọng là chế độ phụ cấp, bao cấp. Trong tình hình hiện nay, sự phát triển cần có cơ sở thế giới quan, phương pháp luận cách mạng khoa học để lý giải, phân tích khủng hoảng, xu thế phát triển của chủ nghĩa xã hội thế giới và phương hướng khắc phục khủng hoảng.
Đổi mới tổng thể của Việt Nam phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học mà cốt lõi là phép biện chứng duy vật. Công cuộc đổi mới toàn diện xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa được mở đường bằng đường lối đổi mới về lý luận và tư tưởng, trong đó có vai trò của triết học Mác – Lênin. Các nhà triết học phải tâm huyết tìm câu trả lời về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bổ sung và phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội thông qua thực tiễn.
Vai trò của triết học Mác – Lênin là hết sức quan trọng, đồng thời cũng là yêu cầu đổi mới ý thức triết học hiện đại. Bên cạnh những mặt tích cực không thể phủ nhận, việc nhận thức và vận dụng lý luận Mác – Lênin, trong đó có triết học Mác – Lênin, sau một thời gian dài mắc bệnh giáo điều, xơ cứng, lạc hậu, bất cập, là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội thế giới. Nhiều vấn đề lý luận chưa được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin giải thích đầy đủ hoặc không lường trước được do những ràng buộc lịch sử. Vì vậy, không ngừng bổ sung, đổi mới là nhu cầu vốn có và cấp thiết của triết học Mác – Lênin đương đại.
Vai trò của thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác – Lênin đặc biệt thể hiện rõ trong chủ trương đổi mới của Việt Nam, đó là đổi mới tư duy. Không có tư duy đổi mới, nhất là tư duy lý luận thì không có doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Triết lý của chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở, nền tảng của quá trình đổi mới tư tưởng ở Việt Nam. Một trong những nét nổi bật về thế giới quan, phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin là vấn đề hiện thực, phép biện chứng, sự vận động luôn biến đổi của thế giới. Đây là những nhân tố góp phần xây dựng lý luận đổi mới, con đường xã hội chủ nghĩa, thời kỳ quá độ, xây dựng kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, mô hình chủ nghĩa xã hội, về bước đi, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, v.v. Đây là thế giới quan mới về sự nghiệp đổi mới của Việt Nam.
Thế giới quan triết học Mác – Lênin đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam tìm ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ mới, trong bối cảnh mới, trong điều kiện, hoàn cảnh của sự sụp đổ thực sự của chủ nghĩa xã hội. Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ ở đâu thì chủ nghĩa tư bản không những không sụp đổ mà còn phát triển mạnh mẽ hơn thế. Tóm lại, thế giới quan triết học Mác – Lênin giúp chúng ta nhìn nhận, đánh giá tình hình mới, tình hình thế giới, quan hệ quốc tế, xu thế thời đại, tình hình thực tế của đất nước và thế giới, con đường phát triển trong tương lai. Thế giới quan triết học Mác – Lênin chỉ ra logic tất yếu của sự phát triển của xã hội loài người là chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa tư bản cuối cùng sẽ bị thay thế bởi một hệ thống tốt đẹp hơn, công bằng hơn; sự phát triển toàn diện của con người. Thế giới quan triết học Mác – Lênin quyết định tính đúng đắn của con đường xã hội chủ nghĩa.
Nếu như thế giới quan của triết học Mác – Lênin giúp chúng ta xác định con đường, bước đi thì phương pháp luận của triết học Mác – Lênin đã giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đặt ra trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội dân chủ và thực tiễn đổi mới hơn 30 năm qua. không chỉ của Việt Nam mà còn là vấn đề và thực tiễn chung của thế giới, toàn cầu hóa, phát triển công nghệ, kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác – Lênin, cần giải quyết mối quan hệ cơ bản trong quá trình đổi mới, đó là mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là mối quan hệ cốt lõi, cơ sở để giải quyết các mối quan hệ khác.
Vì vậy, bước sang thế kỷ XX, những điều kiện lịch sử mới đã xác định vai trò của triết học Mác – Lênin ngày càng lớn. Điều đó đòi hỏi phải bảo vệ và phát triển triết học Mác – Lênin nhằm nâng cao hiệu quả và sức sống của nó đối với thời đại và đất nước.
5. Nội dung cốt lõi
Triết học Mác – Lênin là khoa học tổng kết những quy luật phổ biến nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; nó cung cấp cho con người thế giới quan đúng đắn, khoa học và phương pháp luận để nhận thức và cải tạo thế giới. Ba nội dung cơ bản của triết học Mác – Lênin: chủ nghĩa duy vật biện chứng; phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
5.1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Tập trung vào mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xác định chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm và vấn đề khả năng nhận thức của con người. Chủ nghĩa duy vật biện chứng xác định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, ý thức tác động trở lại vật chất, nhận thức của con người
Vạn vật trên đời, khả năng nhận thức của con người là vô hạn. Chủ nghĩa duy vật biện chứng giúp chúng ta xác định đâu là đời sống vật chất, đâu là đời sống tinh thần trong xã hội, đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần, vì vậy muốn cải tạo xã hội, xây dựng đất nước thì phải bắt đầu từ cái gốc của đời sống vật chất.
Trong giai đoạn hiện nay, kẻ thù của chủ nghĩa Mác thường bị hiểu sai là chủ nghĩa Mác chỉ biết duy vật, kinh tế mà bỏ qua vai trò của ý thức, hệ tư tưởng. Thực ra hoàn toàn không phải vậy, chỉ là chủ nghĩa duy vật tầm thường, phi biện chứng phủ nhận hoặc xem nhẹ vai trò của nhân tố tinh thần, ý thức mà thôi. Trong khi khẳng định vai trò của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng chỉ rõ ảnh hưởng cực kỳ quan trọng của ý thức đối với vật chất. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là mối quan hệ một chiều mà là mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Nếu không thấy được điều này thì sẽ rơi vào căn bệnh duy vật tầm thường, bệnh bảo thủ, trì trệ trong quan niệm và hành động. Nói đến chức năng của ý thức là nói đến chức năng của con người, bản thân ý thức không trực tiếp làm thay đổi bất cứ điều gì trong hiện thực. Theo nhãn quan, sức mạnh của vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bởi sức mạnh của vật chất, vì vậy để thực hiện ý tưởng này, cần phải sử dụng sức mạnh của thực hành. Điều này cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện các quy luật khách quan thì phải biết và vận dụng đúng các quy luật đó, phải có ý chí và phương pháp tổ chức hành động. Tư tưởng và ý thức có thể quyết định đúng sai, thành bại trong công việc của một người tuỳ theo những điều kiện khách quan nhất định. Thế giới vật chất có những quy luật khách quan của nó, không phụ thuộc vào ý thức con người, vì vậy, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực khách quan, lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho mọi hoạt động. Chính vì vậy Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý chí cá nhân làm chủ trương, không được lấy tình cảm làm xuất phát điểm của chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ do ý chí chủ quan, nếu dùng ý chí vào thực tế, dùng ảo tưởng để thay thế thực tế thì mắc bệnh ý chí chủ quan.
5.2. Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật có vai trò đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác, làm cho chủ nghĩa Mác trở nên khoa học và cách mạng. Đó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Nội dung cơ bản là: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến;
Ba quy luật bao gồm quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất; quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; quy luật phủ định của phủ định. và học thuyết nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Hai nguyên lý, ba quy luật, sáu cặp phạm trù, lý luận nhận thức giúp chúng ta hình thành quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm phát triển, giúp chúng ta thấy rõ phương hướng, nhận thức và xu thế phát triển trong các lĩnh vực của xã hội, giúp chúng tôi nhận ra Khía cạnh xác định trong các mối quan hệ giúp chúng tôi trở nên hiệu quả nhất.
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: Một là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, chỉ tính phổ biến của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, đồng thời cũng chỉ mối liên hệ giữa nhiều sự vật, hiện tượng. Các hiện tượng thế giới mà những mối liên hệ phổ biến nhất của chúng là: mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định, tích cực và tiêu cực, chung và riêng… Thứ hai, nguyên lý phát triển, dùng để chỉ sự vật vận động đi lên: từ trình độ thấp lên cao cấp độ, từ Không hoàn hảo đến Hoàn hảo.
Đồng thời, phát triển còn là quá trình sản sinh và giải quyết những mâu thuẫn khách quan bên trong của sự vật, là quá trình thống nhất phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, phát huy những nhân tố tích cực của sự vật cũ, hình thành sự vật mới.
Hai nguyên tắc trên giúp chúng ta hình thành quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển. Áp dụng quan điểm tổng thể vào thực tiễn giúp chúng tôi kết hợp chặt chẽ các chiến lược truyền thông và tập trung. Trong khi khẳng định tính toàn diện, bao trùm của quá trình “Wo Xin”, Đảng ta cũng cho rằng cập nhật tư duy lý luận xã hội chủ nghĩa và tư duy chính trị là khâu quan trọng nhất của công cuộc đổi mới. Trong khi nhấn mạnh đổi mới toàn diện, lấy đổi mới kinh tế làm cốt lõi. Sử dụng quan điểm lịch sử cụ thể để suy nghĩ và giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải chú ý một cách khách quan đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà vấn đề nảy sinh, chú ý đến sự xuất hiện, phát sinh và phát triển của vấn đề, chú ý đến bối cảnh hiện thực một cách khách quan. và chủ quan. Sự thật trở thành sai lầm nếu chúng ta đẩy nó vượt quá giới hạn tồn tại của nó. Khái niệm về sự phát triển giúp chúng ta hiểu rằng, sự phát triển của sự vật, hiện tượng thực chất là một quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Áp dụng quan điểm này vào các quá trình nhận thức đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ rằng tính quanh co và phức tạp của các quá trình phát triển là một hiện tượng phổ biến. Nếu không có những nhận thức khoa học đó, chúng ta dễ bi quan, lung lay khi toàn bộ quá trình cách mạng và các lĩnh vực xã hội, nhất là sự tiến bộ của mỗi cá nhân gặp những khó khăn, trở ngại nhất thời. Có thể coi ba quan điểm trên là những nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nắm vững những nguyên tắc phương pháp luận này không chỉ là nhân tố cơ bản để hình thành thế giới quan khoa học và chủ nghĩa nhân văn cách mạng mà còn là điều kiện tiên quyết của mọi hoạt động tự do sáng tạo và phát triển toàn cầu.
Sáu cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật: Phạm trù là khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính và những mối liên hệ cơ bản nhất của các sự vật, sự vật, hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định.
Cái riêng, cái chung và cái riêng: Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cái riêng, cái chung, cái riêng đều tồn tại khách quan và giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Cái chung chỉ tồn tại trong cái đặc thù và sự tồn tại của nó được phản ánh thông qua cái đặc thù. Đó là, không có điểm chung thuần túy bên ngoài cái riêng. Cái đặc biệt chỉ tồn tại trong cái chung. Tức là không có cái gì đặc biệt tồn tại độc lập tuyệt đối và không liên quan gì đến cái chung. Cái đặc biệt là cái toàn thể, phong phú hơn cái chung, còn cái chung là bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái đặc biệt. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những nét chung, cái riêng còn có nét độc đáo. Trong quá trình phát triển của sự vật, cái riêng và cái chung có thể chuyển hóa cho nhau.
2.Nhân quả: Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt của một sự vật hoặc nhiều sự vật, gây ra những biến đổi nhất định. Kết quả là sự thay đổi do mặt bên của vật thể hoặc tác động qua lại giữa các vật.
Tham khảo: Khái niệm quản lý doanh nghiệp là gì
Thứ ba là tự nhiên và ngẫu nhiên: tự nhiên (tất yếu) được quyết định bởi các yếu tố cơ bản bên trong của cấu trúc vật chất, và nó phải xảy ra trong những điều kiện nhất định, nếu không thì không thể xảy ra. Tính ngẫu nhiên không phải do các quan hệ tự nhiên quyết định, không phải bên trong kết cấu vật chất, cũng không phải bên trong sự vật, mà do các yếu tố bên ngoài, do sự trùng hợp của nhiều môi trường bên ngoài. Vì vậy nó có thể đến, có thể không, nó có thể đến bằng cách này hay cách khác.
Bốn là, nội dung và hình thức: nội dung là tổng hòa các mặt, các yếu tố và các quá trình cấu thành nên sự vật. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối ổn định giữa các yếu tố của sự vật.
5.Bản chất và hiện tượng: Bản chất là tổng thể các mặt của sự vật, là mối liên hệ tự nhiên và tương đối bền vững bên trong sự vật, quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là những biểu hiện bên ngoài của bản chất trong những điều kiện nhất định.
Thứ sáu, khả năng và hiện thực: Khả năng chưa có, nó là tiền đề, nó là hạt giống, khi có đủ điều kiện thì nó sẽ hiện ra trong hiện thực. Thực tế là những gì đã tồn tại trong thực tế. Khả năng và hiện thực là hai mặt thống nhất của mọi quá trình vận động.
Các phạm trù trên phản ánh những thuộc tính bản chất nhất, những mối liên hệ phổ biến cơ bản nhất, cần thiết nhất của toàn bộ thế giới từ tự nhiên đến xã hội và tư duy của con người. Phạm trù không phải là sự vật bên ngoài hay bên trong ý thức con người mà được hình thành trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Mỗi phạm trù là kết quả của quá trình nhận thức trước đó, đồng thời là một mắt xích trung gian để quá trình nhận thức tiếp theo của con người ngày càng tiến gần đến chân lý.
Các phạm trù được hình thành bằng cách trừu tượng hóa và khái quát hóa các thuộc tính và mối quan hệ bản chất của sự vật. Phạm trù phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở, không ngừng được bổ sung, làm phong phú bởi các tri thức khoa học và các phạm trù mới. Với tư cách là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, các phạm trù luôn vận động và phát triển cùng với sự vận động và phát triển của thế giới khách quan. Có như vậy chúng mới phản ánh đúng thế giới khách quan, trở thành công cụ nhận thức và thực tiễn.
Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất (quy luật sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất): Đây là quy luật chung cơ bản của phương pháp. Nhận thức chung về các quá trình vận động và phát triển trong tự nhiên, xã hội và bộ óc con người. Chất và lượng là hai mặt thống nhất của mọi sự vật, hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Cả hai mặt này đều tồn tại khách quan, vật chất tồn tại về lượng và lượng là biểu hiện ra bên ngoài của vật chất. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức chỉ có ý nghĩa tương đối: cái vật chất trong mối quan hệ này đóng vai trò định lượng trong mối quan hệ kia.
Quy luật này chỉ ra rằng mọi vật đều là một thể thống nhất giữa chất và lượng, sự biến đổi dần dần của lượng vượt quá giới hạn về mức độ sẽ dẫn đến sự biến đổi cơ bản của vật chất. Bằng bước nhảy, chất mới sinh ra sẽ tác động làm thay đổi lượng. Việc nắm vững nội dung của quy luật này có vai trò quan trọng trong việc tư duy và giải quyết những vấn đề mà công cuộc đổi mới xã hội chủ nghĩa của nước ta đang đặt ra. Việc thực hiện thành công quy trình đổi mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ tạo bước nhảy vọt về chất ở đó và tạo điều kiện để thực hiện thành công quy trình đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống. Xã hội có thể đạt được bước nhảy vọt về chất. Toàn xã hội như một toàn thể. Giống như bất kỳ sự thay đổi về chất nào khác, những bước nhảy vọt trong đổi mới ngày nay chỉ có thể là kết quả của một lượng thay đổi vừa phải. Mọi nóng vội, chủ quan, ảo mộng đều có thể dẫn đến sai lầm, tổn thất, cản trở sự phát triển của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Quy luật thống nhất của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn):
Quy luật này là “cốt lõi” của phép biện chứng. là Quy luật cội nguồn, là động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển. Theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi sự vận động, mọi quá trình phát triển là mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật. Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng. Các yếu tố tạo ra xung đột là đối lập.
Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt đối lập, thuộc tính và xu hướng vận động của nhau nhưng đồng thời là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau.
Quy luật này giúp chúng ta hiểu rằng mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan, phổ biến, tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng, tồn tại trong mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật. , trong mỗi lĩnh vực, mỗi yếu tố cấu thành đối tượng, sẽ có những mâu thuẫn khác nhau. Giải quyết mâu thuẫn là vì sự phát triển, nhưng mâu thuẫn phải được giải quyết khi điều kiện chín muồi, không thể vội vàng giải quyết mâu thuẫn khi chưa có điều kiện, không thể giải quyết mâu thuẫn. Các điều kiện thúc đẩy sự trưởng thành của xung đột và giải quyết xung đột. Hành động thích hợp phải được thực hiện để giải quyết từng xung đột.
Quy luật phủ định của phủ định: Đây là quy luật về những khuynh hướng cơ bản, chung của mọi sự vận động, phát triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và trực tiếp. Ngay trong tư tưởng loài người, quy luật phủ định của phủ định đã tổng kết tính phổ biến, tính phổ biến của sự phát triển: đó không phải là sự phát triển theo đường thẳng mà là sự phát triển theo “đường xoắn ốc”. Quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa phủ định và khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật. Phủ định biện chứng là điều kiện của sự phát triển, còn đời sống mới là kết quả mang tính chu kỳ của sự kế thừa nội dung tích cực của sự vật cũ, phát triển chúng trong sự vật mới, tạo ra sự phát triển. Ph.Ăng-ghen khẳng định: “Phủ định của phủ định là gì? Đó là quy luật rất chung, chính vì vậy nó có ý nghĩa và ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của tự nhiên, lịch sử và tư duy.”
Phủ định biện chứng là sự ra đời của cái mới và cái cũ, quá trình tự phủ định và tự phát triển là một mắt xích trên con đường ra đời cái mới tiến bộ hơn. Phủ định biện chứng đòi hỏi phải kế thừa có chọn lọc, chuyển hoá những nhân tố tích cực cũ để phục vụ cho sự phát triển mới.
Đồng thời phải phản đối chính sách kế thừa máy móc, phủ định sạch. Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải quan tâm đến các giá trị truyền thống, bởi đó là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và gìn giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác, được sinh ra, kế thừa và phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự ra đời và phát triển của sản phẩm mới không phải là một đường thẳng, mà là một đường xoắn ốc. Vì vậy, trong công việc phải biết phát hiện cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển, trong hoàn cảnh bình thường, người học mới sẽ gặp rất nhiều khó khăn và luôn phải đấu tranh chống lại cái cũ, nhưng theo một quy luật nhất định của phát triển, những người mới thực sự cuối cùng sẽ giành chiến thắng.
Học thuyết nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng:Các nhà biện chứng duy vật cho rằng nhận thức không phải là một hành vi đơn giản, nhất thời, nhất thời mà là một quá trình. Thực hành tư duy trừu tượng. Đó cũng là quá trình chủ thể và khách thể tác động qua lại biện chứng và nhận thức chân lý khách quan. Học thuyết duy vật biện chứng về nhận thức tập trung vào những vấn đề quan trọng nhất, đó là:
Thực tiễn và tác dụng của nó đối với nhận thức: Thực tiễn với tư cách là cơ sở, động cơ và mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn chân lý để kiểm tra tính chân thực của quá trình nhận thức. Bởi thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, nó quy định nhu cầu, nhiệm vụ, phương thức, khuynh hướng và sự phát triển nhận thức của phong trào.
Con đường biện chứng của nhận thức: từ trực giác sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, tức là từ tri thức cảm tính đến tri thức lý tính. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính tuy là hai giai đoạn của quá trình nhận thức nhưng suy cho cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn, đều lấy các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan làm đối tượng và phản ánh nội dung. Có một mối quan hệ chặt chẽ giữa họ. Nhận thức cảm tính là tiền đề và điều kiện của nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính không thể đạt được nếu không có tri thức và tài liệu cần thiết do nhận thức cảm tính cung cấp. Vì vậy, từ trực giác sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng trở về hiện thực là con đường biện chứng để nhận thức chân lý khách quan. Trong đó, thực tiễn không chỉ là điểm bắt đầu và điểm kết thúc của một chu trình mà còn là một quá trình nhận thức. Nhưng sự kết thúc của một khâu là sự khởi đầu của một khâu khác cao hơn. Đó là quá trình nhận thức liên tục, vô tận về chân lý khách quan.
Nhận thức khoa học và trình độ nhận thức khoa học; vấn đề chân lý; sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Nghiên cứu quá trình nhận thức của con người theo quan điểm của phép biện chứng duy vật sẽ giúp chúng ta có những bước đi cụ thể để cải tạo thực tiễn, hướng tới sự tiến bộ và phát triển, đó là: thực tiễn tổ chức hoạt động là khâu quyết định để lý luận trở thành hiện thực, đòi hỏi tập hợp lực lượng và biến nó thành hiện thực. Thống nhất về tư duy, tổ chức và hành động; kiến thức khoa học về đối tượng sửa chữa; kế hoạch triển khai đồng bộ, chi tiết; kế hoạch điều chỉnh hoạt động; lựa chọn phương tiện, phương pháp tác động thiết thực; triển khai kế hoạch; thực tiễn nắm bắt thông tin, phát hiện và giải quyết kịp thời các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình đó; đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm, khái quát lý luận để đề xuất chương trình hoạt động mới. Vì vậy, tổ chức thực tế không chỉ có hiệu quả kinh tế mà còn phải bảo đảm hiệu quả các mặt khác, như chính trị, an ninh quốc phòng, pháp luật, bảo vệ môi trường, sức khỏe, đạo đức, luân lý, văn hóa…
5.3. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Nội dung cơ bản là: vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất; quy luật về quan hệ sản xuất tương ứng với trình độ năng suất; mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội và ý thức xã hội; học thuyết hình thái kinh tế xã hội; đấu tranh giai cấp và Vai trò của cách mạng xã hội; sự sáng tạo lịch sử của khái niệm con người và quần chúng.
Sản xuất vật chất và vai trò của các phương thức sản xuất:Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến dạng vật chất của tự nhiên, tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu. sự tồn tại và phát triển của con người. Phương thức sản xuất là cách thức con người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất xã hội trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, sản xuất vật chất có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Nó là hoạt động cơ bản làm nảy sinh và phát triển các quan hệ xã hội của con người, là cơ sở cho sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ năng suất:Năng suất là tổng hợp các yếu tố khác nhau được sử dụng trong quá trình sản xuất, hình thành nên khả năng hiện thực để thực hành biến đổi các vật thể tự nhiên theo nhu cầu của con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt: quan hệ giữa sở hữu và tư liệu sản xuất, quan hệ giữa tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm công nghiệp. Năng suất và quan hệ sản xuất là hai yếu tố cơ bản không thể thiếu được của quá trình sản xuất, trong đó năng suất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, quan hệ sản xuất là “hình thức xã hội” của quá trình sản xuất. quá trình. Năng suất và quan hệ sản xuất quy định lẫn nhau và tồn tại thống nhất. Đây là yêu cầu phổ biến phải tồn tại trong mọi quá trình sản xuất thực tiễn trong xã hội. Mối quan hệ giữa năng suất và quan hệ sản xuất tuân theo quy luật khách quan là năng suất quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất ảnh hưởng đến năng suất và quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào năng suất. Phụ thuộc vào sự phát triển của năng suất. quyền lực trong từng thời kỳ lịch sử nhất định; vì quan hệ sản xuất chỉ là hình thức của nền kinh tế xã hội, còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất – kỹ thuật của quá trình đó.
Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: Cơ sở hạ tầng là tổng thể những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế – xã hội. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ hệ thống kết cấu của hệ tư tưởng xã hội và hệ thống chính trị xã hội tương ứng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh của cơ sở hạ tầng, sự phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng. Ảnh hưởng của kiến trúc thượng tầng lên cơ sở hạ tầng có thể xảy ra theo một số cách. Nó phụ thuộc vào tính chất, vị trí, vai trò và điều kiện cụ thể của từng phần tử trong kiến trúc thượng tầng. Trong đó, quốc gia là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp và lớn nhất đến kết cấu hạ tầng kinh tế.
Sự hiện diện xã hội và nhận thức xã hội: Sự hiện diện xã hội đề cập đến các khía cạnh của đời sống vật chất và điều kiện vật chất của một xã hội. Tồn tại xã hội bao gồm các nhân tố chủ yếu sau: phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên, môi trường địa lý, dân số và mật độ dân số… Trong đó, phương thức sản xuất vật chất là nhân tố cơ bản. Ý thức xã hội là một mặt của đời sống tinh thần xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội ở một trình độ phát triển nhất định. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội; mỗi khi xã hội (đặc biệt là phương thức sản xuất) biến đổi thì hệ tư tưởng xã hội, quan điểm chính trị, quan niệm về nhà nước pháp quyền tất yếu sẽ thay đổi. Tuy nhiên, ý thức xã hội cũng có tính độc lập tương đối của nó, bởi vì: so với tồn tại xã hội, ý thức xã hội thường lạc hậu; ý thức xã hội có trước tồn tại xã hội; ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội; tác động qua lại trong sự phát triển; ý thức xã hội có khả năng tác động đến tồn tại xã hội.
Thấy được vai trò quyết định của sản xuất vật chất, của năng suất, của cơ sở hạ tầng, của tồn tại xã hội… giúp đảng ta vận dụng nó để hoạch định đường lối, chủ trương của đảng một cách khách quan, khoa học, thích ứng với mọi vận động, phát triển. Xã hội… đã tạo cho đất nước chúng ta cơ hội, tiềm năng và vị thế hiện có.
Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sử là học thuyết hình thái kinh tế – xã hội Chủ nghĩa duy vật lịch sử không chỉ dừng lại ở việc giải thích những nguyên lý chung về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội mà còn đi sâu phân tích cơ cấu xã hội để xác định địa vị xã hội và ý thức xã hội. Vai trò của các yếu tố cấu thành xã hội khác nhau, đồng thời xem xét mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố cấu thành lý luận hình thành kinh tế xã hội. Điều chắc chắn là trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết hình thái kinh tế – xã hội là một trong những cơ sở lý luận quan trọng của học thuyết xã hội chủ nghĩa của Mác.
Hình thái kinh tế xã hội là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, “có nghĩa là một xã hội được xác lập trong một thời kỳ lịch sử nhất định theo một trình độ năng suất nhất định và kiến trúc thượng tầng tương ứng, có một quan hệ sản xuất duy nhất của xã hội đó. Những quan hệ sản xuất đó” [1]. Học thuyết về các hình thái kinh tế xã hội của C.Mác Cuộc sống là một cuộc cách mạng trong khoa học xã hội nói chung và triết học nói riêng. Khác với tất cả các học thuyết duy tâm, thần bí, siêu hình trước đây, nó chỉ ra rằng động lực của lịch sử không phải là một tinh thần thần bí nào đó, mà là hoạt động thực tiễn của con người, mà hoạt động của nó bắt nguồn từ một sự thật hiển nhiên là con người phải ăn, uống trước rồi mới thi đua được. để thống trị, trước khi có thể tham gia vào các hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học và các hoạt động khác, Mác đã nhấn mạnh rằng các quan hệ xã hội vật chất, tức là quan hệ sản xuất, là cơ bản, khởi đầu và có tính chất quyết định. cung cấp cho khoa học xã hội một tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan để xem xét các quy luật xã hội.
c.Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. V.i.Lê-nin giải thích thêm: “Chỉ có quy các quan hệ xã hội thành quan hệ sản xuất và quy quan hệ sản xuất xuống trình độ năng suất mới đặt được cơ sở vững chắc. Nhất định phải coi sự phát triển của các hình thái xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Tất nhiên, nếu có không có quan điểm thì không thể có khoa học xã hội.” Sự ra đời của triết học Mác đã tạo ra bước chuyển biến mang tính cách mạng trong lịch sử phát triển của triết học nhân loại, không chỉ để tìm hiểu thế giới mà còn để cải tạo thế giới : “Các nhà triết học đã chỉ ra rằng có nhiều cách khác nhau để giải thích thế giới, nhưng trọng tâm là Thay đổi thế giới.”
Những tư tưởng cơ bản của học thuyết Mác về hình thái kinh tế – xã hội đã trở thành cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Việt Nam quá độ từ nền kinh tế nông nghiệp lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua hệ thống tư bản chủ nghĩa, chúng ta cần phải xây dựng lại sức sản xuất và quan hệ sản xuất; cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng từ đầu. Để hình thành hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa, trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã đề ra và thực hiện những quyết sách lớn: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đặc sắc dân tộc. Điều chắc chắn là khi CNH, HĐH đi đôi với ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, khi khoa học và công nghệ trở thành quốc sách cùng với giáo dục và đào tạo, là nền tảng và động lực của CNH, HĐH, nguồn nhân lực là nhân tố quyết định mọi thắng lợi.
Tóm tắt, ba nội dung cốt lõi của triết học Mác – Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng; phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử là một thế giới quan và phương pháp luận gắn bó hữu cơ, thống nhất với nhau, vì triết học Mác – Lênin có thể hoàn toàn đúng. Nhận thức thế giới tự nhiên một cách tổng thể, tự nhiên, xã hội và bộ óc con người. Triết lý của chủ nghĩa Mác – Lênin đã tạo cho Đảng ta một lập trường khoa học, một nhân sinh quan cách mạng và phương pháp luận khoa học, giúp Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương, chương trình, kế hoạch hành động và triển khai thực hiện, thúc đẩy xã hội phát triển. Những bài học thực tiễn của cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua, thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu của 35 năm qua. Những cải cách quốc gia gần đây có thể nhìn thấy một cách sinh động. Những dẫn chứng thể hiện rõ vai trò và sức mạnh của sự vận dụng sáng tạo triết học Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam.
Tham khảo: Nước mũi có máu: Nguyên nhân và hướng xử trí | Medlatec
Vậy là đến đây bài viết về Triết học Mác – Lênin là gì? Đối tượng, chức năng, vai trò, nội dung – LyTuong.net đã dừng lại rồi. Hy vọng bạn luôn theo dõi và đọc những bài viết hay của chúng tôi trên website Onlineaz.vn
Chúc các bạn luôn gặt hái nhiều thành công trong cuộc sống!