Xuất khẩu tư bản tư nhân là gì
v.i.Lênin chỉ ra rằng xuất khẩu hàng hóa là đặc trưng của thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
– Xuất khẩu hàng hóa là đưa hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Còn xuất khẩu tư bản là đầu tư vốn ra nước ngoài để tạo ra giá trị thặng dư ở nước sở tại.
Bạn đang xem: Xuất khẩu tư bản tư nhân là gì
– Việc xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu, bởi vì ở các nước tư bản phát triển đã tích lũy được một lượng lớn tư bản, muốn tìm kiếm một lượng “thặng dư tư bản” tương đối để đầu tư. đầu tư trong nước. Tiến bộ công nghệ ở các nước này làm tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản và giảm tỷ suất lợi nhuận; đồng thời, ở nhiều nước kinh tế lạc hậu, giá đất thấp, tiền công thấp, nguyên vật liệu rẻ, nhưng thiếu vốn nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn lực lượng đầu tư vốn. >
– Theo hình thức đầu tư, xuất khẩu vốn có thể chia thành xuất khẩu vốn hoạt động (đầu tư trực tiếp) và xuất khẩu vốn khả dụng (đầu tư gián tiếp). Xuất khẩu vốn trực tiếp là việc đưa vốn ra nước ngoài để kinh doanh trực tiếp có lãi cao. Xuất khẩu vốn gián tiếp là các khoản cho vay sinh lãi. Dưới góc độ chủ sở hữu vốn, có thể chia thành xuất khẩu vốn nhà nước và xuất khẩu vốn tư nhân.
Xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để tư bản tài chính mở rộng sự thống trị, bóc lột và nô dịch thế giới trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, xuất khẩu vốn về khách quan cũng có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế của nước nhập khẩu như thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế thuần nông sang cơ cấu kinh tế nông nghiệp – công nghiệp. Kinh tế quốc dân.
1. Bản chất của xuất khẩu vốn
Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhằm mục đích bóc lột giá trị thặng dư và các nguồn lực khác ở nước nhập khẩu tư bản (đầu tư tư bản nước ngoài). Lênin khẳng định rằng xuất khẩu tư bản, khác với xuất khẩu hàng hóa, về nguyên tắc là một quá trình ký sinh. Cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 20, xuất khẩu tư bản diễn ra phổ biến là do:
Thứ nhất, ở một số ít nước phát triển, do không tìm được địa điểm đầu tư sinh lời cao nên đã tích lũy một lượng vốn lớn, và một phần trở thành “vốn thặng dư”. .
Thứ hai, khả năng xuất khẩu tư bản phát sinh do nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào giao lưu kinh tế thế giới nhưng lại thiếu vốn. Ở những quốc gia đó, giá đất tương đối thấp, tiền lương thấp và nguyên liệu thô rẻ nên tỷ suất lợi nhuận cao.
Thứ ba, chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn kinh tế – xã hội càng gay gắt.
Xuất khẩu tư bản trở thành một biện pháp giảm bớt mức độ nghiêm trọng này.
2. Các hình thức và hậu quả của xuất khẩu vốn
Tham khảo: Trẻ sốt đi sốt lại nhiều lần: Nguyên nhân và cách xử lý như thế nào? | Medlatec
* Có nhiều hình thức đầu tư vốn, xét ở góc độ phương thức đầu tư có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp:
– Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu vốn để thành lập doanh nghiệp mới hoặc mua lại doanh nghiệp hiện có ở nước sở tại, biến doanh nghiệp đó thành chi nhánh của công ty mẹ. Các doanh nghiệp mới thành lập thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương, nhưng cũng có những doanh nghiệp được đầu tư hoàn toàn bởi các công ty nước ngoài.
– Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu vốn để thu lãi dưới hình thức cho vay. Thông qua các ngân hàng tư nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc tế và quốc gia, các cá nhân hoặc nhà tư bản tư nhân cung cấp vốn cho các quốc gia khác với các điều khoản khác nhau để đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế. Ngày nay, hình thức này cũng có thể được thực hiện bằng cách mua trái phiếu hoặc cổ phần của các công ty ở nước nhập khẩu vốn.
* Xét từ góc độ chủ sở hữu, có sản lượng vốn nhà nước và sản lượng vốn tư nhân:
– Xuất khẩu tư bản nhà nước là hình thức xuất khẩu tư bản trong đó nhà nước tư sản rút vốn từ ngân khố đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản hoặc viện trợ toàn bộ. Có thể hoàn lại hoặc không hoàn lại – Có thể hoàn lại để đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị và quân sự.
Ở góc độ kinh tế, xuất khẩu vốn nhà nước thường hướng đến lĩnh vực cơ sở hạ tầng, tạo môi trường tốt cho đầu tư vốn tư nhân.
Về mặt chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản là nhằm cứu vãn một chế độ chính trị khép kín đang lụi tàn hoặc thiết lập sự lệ thuộc lâu dài.
Về mặt quân sự, viện trợ của các nhà nước tư sản được thiết kế để lôi kéo các nước tham gia vào các khối quân sự hoặc buộc các nước nhận gửi quân đi đánh nước khác, cho phép các nước xuất khẩu xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ của họ hoặc đơn giản là bán vũ khí .
Xem thêm: 13 tác dụng của chè vằng trong trị bệnh và làm đẹp
– Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản của tư bản tư nhân. Ngày nay, hình thức này chủ yếu được thực hiện bởi các công ty đa quốc gia thông qua hoạt động đầu tư thương mại. Đặc điểm của xuất khẩu tư bản tư nhân là thường đầu tư vào các ngành kinh tế có thời gian quay vòng vốn ngắn, lợi nhuận độc quyền cao. Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản chủ yếu và có xu hướng tăng trưởng nhanh, chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng xuất khẩu tư bản. Nếu như những năm 1970 xuất khẩu tư bản tư nhân đạt trên 50% thì đến những năm 1980 đã đạt 70% tổng số tư bản xuất khẩu.
Về hoạt động có hoạt động tín dụng tài chính và chuyển giao công nghệ của chi nhánh các công ty đa quốc gia, ngân hàng hay trung tâm tín dụng, trong đó hoạt động dưới hình thức chuyển giao công nghệ là biện pháp chủ yếu thường được các nước xuất khẩu vốn sử dụng để kiểm soát nền kinh tế của các nước nhập khẩu vốn. Xuất khẩu tư bản thực chất là hình thức mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi quốc tế, là bành trướng thế lực của tư bản tài chính để bóc lột nhân dân lao động toàn thế giới, bắt các nước nhập khẩu tư bản bóc lột giá trị thặng dư, làm tê liệt các cơ cấu kinh tế, dựa vào các nước tư bản chủ nghĩa.về kinh tế. từ đó làm trầm trọng thêm các xung đột kinh tế – xã hội.
3. Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa hiện nay
Ngày nay, trong điều kiện lịch sử mới, hoạt động xuất khẩu tư bản đã có những thay đổi lớn.
Thứ nhất, đã có sự thay đổi cơ bản theo hướng xuất khẩu tư bản. Trước đây, dòng vốn chủ yếu được xuất khẩu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển hơn (chiếm hơn 70%). Nhưng trong những thập kỷ gần đây, phần lớn dòng vốn đầu tư chảy giữa các nước tư bản tiên tiến. Tỷ trọng xuất khẩu tư bản từ ba trung tâm tư bản lớn tăng nhanh, đặc biệt là dòng vốn đầu tư mạnh từ Nhật Bản sang Hoa Kỳ và Tây Âu và từ Tây Âu sang Hoa Kỳ, làm cho dòng xuất khẩu tư bản của Trung Quốc giảm mạnh. các nước đang phát triển thậm chí chỉ còn 16,8% (1996), nay còn khoảng 30%. Trước tình hình đó, nhiều nhà lý luận tư sản cho rằng xuất khẩu tư bản không còn là thủ đoạn và phương tiện để các nước giàu bóc lột các nước nghèo. Họ cho rằng xuất khẩu tư bản đã thoát khỏi cái cũ và trở thành một hình thức hợp tác cùng có lợi trong quan hệ quốc tế. Hình thức hợp tác này chủ yếu diễn ra giữa các nước tư bản phát triển. Đây là một quan niệm hoàn toàn sai lầm.
Như chúng ta đã biết, cuộc cách mạng công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt của năng suất. Những năm 1980, nhiều ngành công nghiệp mới nổi ra đời và phát triển thành những ngành tiên phong, như: công nghiệp công nghệ sinh học, công nghiệp chế tạo vật liệu mới, công nghiệp bán dẫn và vi điện tử, công nghiệp hàng không vũ trụ, đại dương… Các ngành này có quy trình và thiết bị kỹ thuật hiện đại, tiêu hao ít nguyên liệu vật liệu và nhiên liệu. Trong nền kinh tế của các nước tư bản phát triển, đã diễn ra sự chuyển dịch cơ cấu ở những ngành sản xuất then chốt, có hàm lượng công nghệ cao. Sự xuất hiện của một ngành công nghiệp mới tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn bởi vì nó tạo ra lợi nhuận rất cao ngay từ đầu. Việc áp dụng công nghệ mới chỉ xảy ra ở các nước tư bản phát triển vì các nước đang phát triển có cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội lạc hậu, chưa phù hợp, tình hình chính trị không ổn định, sức mua kém, tỷ suất lợi nhuận thấp, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư không còn cao như trước ( Còn đối với các nước đang phát triển đã trở thành nics, tỷ trọng dòng vốn xuất khẩu vẫn lớn: chiếm 80% tổng vốn xuất khẩu của các nước đang phát triển). Mặt khác, trong thời kỳ này, xu hướng liên kết kinh tế lấy tư bản chủ nghĩa làm trung tâm diễn ra rất mạnh mẽ. Hệ quả của hoạt động này luôn là sự hình thành các khối kinh tế với luật bảo hộ rất chặt chẽ. Để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, các tập đoàn đa quốc gia đã kết hợp các chi nhánh của họ như một phần của các khối kinh tế mới để tránh các mức thuế cao của luật bảo hộ. Nhật Bản và Tây Âu đang tích cực đầu tư vào thị trường Mỹ theo cách này.
Sự thay đổi địa điểm và tỷ lệ đầu tư của các nước tư bản phát triển không làm thay đổi bản chất của sản lượng tư bản chủ nghĩa mà chỉ làm cho hình thức và xu hướng của sản lượng tư bản trở nên thời thượng, phong phú và phức tạp hơn. Sự ra đời của các ngành công nghiệp mới có hàm lượng công nghệ cao ở các nước tư bản phát triển luôn dẫn đến sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản, tất yếu dẫn đến xu hướng giảm của tỷ suất lợi nhuận. Hiện tượng thặng dư tư bản tương đối, diễn biến hệ quả của nó là tất yếu. Ngoài ra, sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị quy trình mới đã dẫn đến việc loại bỏ các thiết bị và công nghệ lạc hậu khỏi quy trình sản xuất trực tiếp (do hao mòn hữu hình và vô hình.). Những phương tiện sản xuất này rất hữu ích và là công nghệ mới cho nền kinh tế thế giới đang phát triển. Để thu được lợi nhuận độc quyền cao, các công ty tư bản độc quyền mang những thiết bị đó sang các nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc còn tồn tại, việc các nước tư bản phát triển xuất khẩu tư bản sang các nước đang phát triển là điều tất yếu. Xét trong một thời kỳ phát triển nhất định, tỷ trọng vốn đầu tư vào một số khu vực nhất định trên thế giới có thể thay đổi, nhưng xét trên phạm vi thế giới dài hạn hơn, có thể thấy rằng tư bản xuất khẩu vẫn là vũ khí chủ yếu mà tư bản độc quyền sử dụng. Mở rộng ra nước ngoài. Tình trạng mắc nợ của các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh là minh chứng cho kết luận trên.
Thứ hai, chủ thể xuất khẩu vốn đã có những thay đổi lớn, các tập đoàn đa quốc gia ngày càng đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu vốn, đặc biệt là FDI. Mặt khác, có nhiều nước xuất khẩu vốn từ các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước châu Á.
Loại hình xuất khẩu tư bản thứ ba có nhiều hình thức phong phú, đan xen giữa xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hoá ngày càng tăng. Ví dụ, trong đầu tư trực tiếp, các hình thức mới như bot và bts kết hợp xuất khẩu vốn với hợp đồng mua bán hàng hóa và dịch vụ, chất xám tiếp tục tăng.
Thứ tư, xóa bỏ dần sự áp đặt của thực dân đối với xuất khẩu tư bản chủ nghĩa và phát huy nguyên tắc các bên cùng có lợi.
Xuất khẩu tư bản ngày nay luôn mang lại kết quả hai chiều. Một mặt, nó làm cho các quan hệ tư bản chủ nghĩa phát triển và lớn mạnh trên bình diện quốc tế, góp phần thúc đẩy quá trình phân công lao động và quốc tế hóa đời sống kinh tế ở nhiều nước; Tuy nhiên, mặt khác, xuất khẩu tư bản vẫn để lại những hậu quả nghiêm trọng đối với các nước nhập khẩu nó, đặc biệt là các nước đang phát triển, như: nền kinh tế mất cân bằng và phụ thuộc vào phát triển, mắc nợ do bóc lột quá mức. Nhưng phần lớn phụ thuộc vào vai trò điều tiết của nhà nước ở nước nhập khẩu vốn. Nhiều nước tận dụng mặt tích cực của xuất khẩu tư bản để mở rộng việc hấp thụ vốn đầu tư và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa của nước mình. Vấn đề là phải biết sử dụng linh hoạt, nguyên tắc các bên cùng có lợi, chọn phương án thiết thực, phát huy hiệu quả các nguồn lực quốc tế.
Tham khảo: Số hạng là gì?
Vậy là đến đây bài viết về Xuất khẩu tư bản tư nhân là gì đã dừng lại rồi. Hy vọng bạn luôn theo dõi và đọc những bài viết hay của chúng tôi trên website Onlineaz.vn
Chúc các bạn luôn gặt hái nhiều thành công trong cuộc sống!